Mở đầu buổi tọa đàm, Đức Gyalwang Drukpa đề nghị mọi người cùng cầu nguyện quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Đức Gyalwang Drukpa chia sẻ, Đức Phật là bậc giác ngộ chân lý. Giáo pháp của Ngài nói về chân lý, về con đường giác ngộ chân lý đó là Pháp Bảo, và những bậc thực hành giáo pháp, đạt được chứng ngộ là Tăng Bảo.
![]() |
"Hạnh phúc không đến từ bên ngoài mà hạnh phúc do chính bạn tạo nên, từ những gì mình đang có", Đức Gyalwang Drukpa chia sẻ. |
Khi cầu nguyện quy y Tam Bảo là chúng ta tưởng nhớ đến những phẩm chất tốt đẹp đó, ta muốn trở thành người tốt, có những phẩm chất tốt đẹp như Tam Bảo, vì lợi ích của chúng sinh. Để được như vậy, chúng ta cần nỗ lực học tập trưởng dưỡng, rèn luyện bản thân.
"Nhiều người, sau khi gặp tôi, lại cho rằng việc kiếm tiền, những công việc hàng ngày không còn quan trọng. Đây là một ngộ nhận sai lầm. Nền tảng quan trọng trong cuộc sống của ta là sự nỗ lực, phấn đấu hết mình, rèn luyện bản thân để trở nên tốt đẹp hơn. Bản thân tôi và chư Tăng, Ni cũng phải rèn luyện, tu học rất nhiều, tôi thậm chí không có thời gian để ngủ. Cuộc sống là cơ hội để chúng ta nỗ lực rèn luyện bản thân.
Cần rèn luyện để biết hài lòng, trân trọng những gì mình đang có để được hạnh phúc. Ví dụ ta có đôi mắt để nhìn, đôi chân để đi, miệng để nói được với mọi người. Ta cần biết trân trọng tất cả những điều đó. Để biết trân trọng tri ân, ta cũng cần rèn luyện.
Hạnh phúc không đến từ bên ngoài mà hạnh phúc do chính bạn tạo nên, từ những gì mình đang có. Hạnh phúc không đến từ việc tập trung vào và trách than về những gì mình không có. Làm như vậy sẽ khiến chúng ta phải khổ đau.
Tài sản và sự giàu có chân thật chính là đôi mắt, bàn tay, khả năng suy nghĩ, nói cười… tất cả đều không thể dùng tiền mua được. Bởi vậy con đường thực hành tâm linh đó là rèn luyện bản thân để biết chấp nhận. Khi đã biết chấp nhận, chúng ta sẽ hài lòng, khi hài lòng ta sẽ đạt được hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau. Nhiều người trong chúng ta bị kẹt mắc trong những nhãn mác tôn giáo.
![]() |
Phật tử ngồi chăm chú nghe chia sẻ quan điểm về hạnh phúc của Đức Gyalwang Drukpa. |
Điều này khiến mọi thứ trở nên khó khăn, khi người khác nhìn vào cũng sẽ mệt mỏi, cảm thấy không thể theo được. Phật giáo thực chất không phải là tôn giáo, mà đó là cách thức để trưởng dưỡng, phát triển cuộc sống của mỗi chúng ta để trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Đây là cốt tủy của đạo Phật, của những gì Đức Phật đã thuyết giảng, đó là tâm linh chứ không phải tôn giáo, không phải thờ cúng hay nghi lễ.
Tôn giáo thường dựa trên những nề tảng văn hóa. Văn hóa thì có sự khác biệt ở các quốc gia, dân tộc, vùng miền. Ví dụ như nơi cần đội mũ, nơi thì phải bỏ ra, nơi thì mặc áo vàng, nơi mặc áo trắng… Chúng ta cần tôn trọng văn hóa nhưng không nên bị kẹt chấp, vướng mắc ở đây. Nếu không bám chấp thì cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, hạnh phúc hơn. Là Phật tử, chúng ta cần hiểu đúng về cốt tủy của đạo Phật, hiểu và thực hành theo", Đức Gyalwang Drukpa chia sẻ.
![]() |
Nếu bạn thực hành tâm linh thực sự, bạn có thể tự tại đối mặt với cái chết. |
Tại buổi toạ đàm, có rất nhiều câu hỏi của phật tử, ví như, bệnh tật và cái chết liệu có đáng sợ nhất?
Đức Gyalwang Drukpa chia sẻ rằng: Cần có sự rèn luyện tâm để có thể đương đầu với việc này. Đây là một phần của con đường thực hành tâm linh, trong đó, biết chấp nhận là điều vô cùng quan trọng. Chẳng hạn, bạn cần biết tri ân việc mình có đủ đôi mắt để nhìn.
Nhưng nếu một ngày, không may bạn đôi mắt bạn bị mù lòa không nhìn được nữa, bạn cần biết chấp nhận điều này và vẫn hài lòng với cuộc sống vì còn vô số điều tốt đẹp khác mà cuộc dành tặng bạn như đôi chân để đi, miệng để nói chuyện giao tiếp, bạn vẫn có thể ăn uống bình thường, đi vệ sinh bình thường. Những điều đó đã là điều kỳ diệu.
Vì vậy, khi rèn tâm biết trân trọng, thì chấp nhận cũng đi đôi, điều này cần song song rèn luyện thành “trọn gói” trong việc thực hành tâm linh của bạn: trân trọng những gì mình có, chấp nhận những gì mình mất.
Nếu thực sự hiểu được bản chất cái chết là gì thì ta sẽ không còn sợ hãi. Thân này sẽ thay đổi. Chết chỉ là một tiến trình chuyển đổi. Thân của chúng ta liên tục già đi và đến một lúc nào đó ta cần xả bỏ thân già nua, bệnh tật này để lấy thân mới đẹp đẽ trẻ trung hơn, bởi thần thức của chúng ta sẽ được duy trì sang đời tiếp theo. Nếu nhìn nhận thấu hiểu như vậy, ta có thể coi cái chết là một cơ hội, một tiến trình hạnh phúc thay vì sợ hãi, khổ đau. Nếu bạn thực hành tâm linh thực sự, bạn có thể tự tại đối mặt với cái chết.
Tình Lê
" alt=""/>Quan điểm của Đức Gyalwang Drukpa về sống hạnh phúcÔng là bạn của Jules-Joseph Perrot, một biên đạo múa nổi tiếng, nên dễ dàng vào xem các buổi tập và biểu diễn tại Nhà hát Opera Paris. Ngoài ra, ông thường nhờ một số vũ công tạo dáng trong studio để ông sáng tác tranh.
Họa sĩ người Pháp có khả năng khắc họa xuất thần chuyển động của nhân vật. Ngoài các bức về vũ công, phụ nữ đang tắm, ông còn vẽ ngựa đua cùng nài ngựa. Người xem cũng có thể cảm nhận được nội tâm phức tạp cùng cảm giác cô đơn của các nhân vật trong tranh.
Vào thời gian đó, nhiều vũ công trẻ phải tìm kiếm người bảo trợ tài chính. Các nữ diễn viên ballet bị mỉa mai là “những con chuột nhắt”. Một số không nhỏ thiếu nữ xuất thân khốn khó đã quyết định theo đuổi ballet để có cơ hội tiếp cận giới doanh nhân, quý tộc Paris. Những đại gia này thường tài trợ cho các vũ công bằng cách trả tiền thuê nhà, mua quần áo để có thể gặp riêng họ ở hậu trường và trong những buổi tập.
Theo Barnebys, Degas đã nhận ra mặt trái này và phản ánh lại trong các tác phẩm hội họa của mình. Đó là những người đàn ông mặc vest đen và đội mũ đang ưỡn bụng, nằm ườn trên ghế bên rìa sân khấu xem các vũ công luyện tập. Mối quan hệ mập mờ của hai bên khiến các nữ diễn viên bị nghi ngờ đánh đổi tình cảm lấy tiền bạc.
Năm 1880, thị lực của Degas bắt đầu suy giảm nên ông quyết định chuyển từ tranh sơn dầu và pastel sang điêu khắc. Ông tạc bức tượng Vũ công nhỏ tuổi 14 lấy cảm hứng từ nàng thơ Marie van Goethem - vũ công ballet 14 tuổi của Nhà hát Opera Paris. Để kiếm thêm tiền, Marie đã làm người mẫu cho Degas từ năm 1878.
Bức tượng bằng sáp, sử dụng tóc thật, buộc tóc bằng ruy băng, mặc váy vải. Năm 1881, tác phẩm được trưng bày tại triển lãm Ấn tượng lần thứ 6 ở Paris.
Tuy nhiên, ác cảm về các vũ công khiến sáng tác của Degas nhận tới tấp đánh giá tiêu cực cho rằng bức tượng “ghê tởm, đồi trụy”. Họa sĩ người Pháp không bao giờ công bố tác phẩm điêu khắc nào nữa dù vẫn tạc tượng suốt 40 năm.
Phản ứng không mấy tích cực trên cũng báo hiệu sự nghiệp sân khấu ngắn ngủi của Marie. Một tạp chí đưa tin cô thường xuyên xuất hiện tại 2 quán rượu tai tiếng. Sau khi rời Nhà hát Opera Paris năm 1882, Marie rơi vào quên lãng, không có thông tin nào về cuộc sống sau này của cô, thậm chí là năm mất cũng không ai hay. Chỉ có hình ảnh của cô được Degas tạc thành tượng lưu lại muôn đời.
Degas qua đời vào năm 1917. Mười năm sau, nghệ sĩ người Pháp Adrien-Aurélien Hébrard đúc bức tượng Vũ công nhỏ tuổi 14bằng đồng. Trong khi đó, bản gốc bằng sáp hiện nằm trong bộ sưu tập của Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia ở Washington, D.C. (Mỹ).
Ngày nay, những bức tranh của Degas đã chứng tỏ được giá trị của mình khi xuất hiện ở các viện bảo tàng danh giá nhất thế giới và có giá cao ngất ngưởng. Bức tranh Vũ công nghỉ ngơi có giá 37 triệu USD vào năm 2008. Phiên bản Vũ công nhỏ tuổi 14bằng đồng từng bị dè bỉu được trả tới 41,6 triệu USD vào năm 2022.
Sau cái chết của Degas, những người thừa kế tìm thấy trong xưởng vẽ của ông 150 tác phẩm điêu khắc bằng sáp, nhiều bức trong tình trạng hư hỏng.
Theo cư sĩ Trần Bách Đạt, mục tiêu, phương pháp và nội dung giáo dục của Đức Phật ở bất kỳ phương diện nào cũng đều có những kiến giải độc đáo.
“Tuy khoảng cách về thời gian từ thời của Đức Phật đến nay đã hơn 2.500 năm, con người và sự vật đã có những biến động vô cùng lớn lao, nhưng đọc lại những gì Ngài chỉ ra trong kinh, chúng ta vẫn nhận ra rằng những điều Đức Phật đã dạy thật mới mẻ, hoàn mỹ và có giá trị thực tế, có thể đem lại sự hân hoan cho tâm hồn và khai sáng cuộc sống”, cư sĩ Bách Đạt chia sẻ.
Tác giả cuốn Con người và sự nghiệp giáo dục của Đức Phậtlà người ham học hỏi và có những suy nghĩ thâm sâu, ngoài việc chuyên tâm nghiên cứu những tác phẩm về các trào lưu tư tưởng giáo dục đương đại ra, ông còn dành nhiều công sức đọc kinh điển của Phật giáo.
Vị cư sĩ tự thân thực hành, cần mẫn kiểm chứng và phát hiện ra trong kinh điển Phật giáo hàm chứa nhiều tư tưởng rất có giá trị nên chắt lọc những phần có liên quan đến giáo dục, tóm tắt chỉnh lý rồi phân tích các đặc điểm khác nhau về Con người của Đức Phật.
Thông qua hai chủ đề nổi bật với những trích dẫn kinh điển tác giả đã chứng minh Đức Phật là một nhà giáo dục vĩ đại, một nhà nghệ thuật chân chính hiểu được cuộc sống, đồng thời cũng là một kỹ sư tâm hồn.
Thứ nhất: Nghiên cứu, thảo luận những điểm đặc sắc về con người của Đức Phật, chứng minh Ngài có đầy đủ điều kiện để trở thành một người thầy giỏi. Đồng thời, tác giả cũng trích dẫn những kết quả nghiên cứu Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại và kinh nghiệm của bản thân để khẳng định vấn đề này.
Thứ hai: Chứng minh ít nhất 12 điểm đặc sắc trong phương pháp giáo dục của Đức Phật.
Một trong những điểm đặc sắc trong phương pháp giáo dục của Đức Phật là nội hàm phong phú: Từ sinh lý học, địa lý học, vạn vật học, thiên văn học, lịch sử học, triết học, dinh dưỡng học, vệ sinh học, đạo dưỡng sinh, y học, tương lai học, kinh tế giáo dục học, tâm lý học, logic học, chính trị học…
Chẳng hạn, Đức Phật hiểu rõ thành phần cấu tạo của từng bắp thịt, mỗi giọt máu, từng đốt xương, từng mẩu tủy sống trong cơ thể con người. Thậm chí, Ngài còn biết được mỗi người có đến 99 vạn lỗ chân lông, ngay cả quá trình phát triển của một thai nhi từ khi trứng bắt đầu thụ tinh đến khi được sinh ra.
Rồi một quốc gia có bao nhiêu dãy núi và dòng sông? Trong núi có những bộ lạc nào và hồ nước nào? Có những loài cây cối, cỏ hoa và động vật nào trong rừng? Dưới hồ nước có những gì? Núi cao và rộng bao nhiêu? Sự phân bố của những dãy núi và dòng sông như thế nào?... Tất cả những điều này đều được Đức Phật nói vô cùng tỉ mỉ.
Không chỉ là một bậc Đại trí có thể nói ra những điều mang tính thuyết phục cao mà Đức Phật còn là một người tự nêu gương. Không chỉ là một người đưa đường dẫn lối mà Đức Phật còn là một người giúp đỡ. Không chỉ là một người truyền đạt văn hóa mà Đức Phật còn là một người cố vấn, một người bạn tốt nhất của chúng sinh.
Đức Phật là người nghiêm túc chịu trách nhiệm, thân thiết và có tấm lòng lương thiện. Không những hiểu sâu sắc về tâm hồn con người mà Đức Phật còn nhiệt tình với công việc phúc lợi công cộng.
Không những nắm vững các nguyên lý giáo dục mà Đức Phật còn vận dụng hiệu quả kỹ năng giảng dạy. Không những chú trọng giáo trình và phương pháp giảng dạy phù hợp với năng khiếu của người học, Đức Phật còn nhấn mạnh đến việc đánh giá giáo dục.
Qua tác phẩm, độc giả sẽ nhận ra, Đức Phật không những truyền thụ những lẽ phải vào trong tâm trí của học trò mà Ngài còn khơi gợi những tiềm năng và thế mạnh của họ. Phương pháp này nếu được mỗi người thầy ứng dụng vào sự nghiệp trồng người chắc hẳn sẽ khai phóng người học để họ tìm thấy chính mình chứ không phải ai khác trên con đường tìm về nguồn cội bình an, kiến tạo tương lai.